I. PHÂN LOẠI THUỐC ĐỘC
Trước đây, việc phân loại thuốc độc mỗi nơi áp dụng một khác, nơi thì sắp xếp theo dược thư Pháp gồm 3 bảng: A (độc), B (độc gây nghiện), C (nguy hiểm), nơi lại xếp theo 2 bảng độc, mạnh như quy chế của Liên xô. Thuốc Đông trước đây cũng đã được phân loại thành thuốc độc nhưng chưa được đầy đủ, nên cần phải bổ sung.
Căn cứ vào trình độ chuyên môn của cán bộ, vào việc Nhà nước đã quản lý toàn bộ hệ thống sản xuất và phân phối, đồng thời để tiện cho việc trao đổi thuốc men giữa nước ta với nước bạn trong phe xã hội chủ nghĩa. Bộ thấy cần chia thuốc độc Đông và Tây ra làm 2 bảng:
Bảng A: Gồm những thuốc độc hơn hết trong đó có một số thuốc độc gây nghiện (thuốc tây).
Bảng B: Gồm những thuốc tuy không độc bằng loại A, nhưng có thể gây tai nạn ngộ độc, nên xếp vào bảng thuốc “nguy hiểm”.
Những vụ tai nạn xảy ra thường là những thuốc thuộc về hai bảng này, nên nơi nào có những thuốc đó thì đều phải sắp xếp theo các điều khoản của quy chế.
II. NHÃN THUỐC
Nhãn thuốc là một vấn đề mấu chốt để chống nhầm lẫn về thuốc men. Do đó nhãn thuốc cần có màu sắc riêng biệt thích hợp và thể hiện được: tính chất độc của thuốc, nồng độ, lượng thuốc, cách dùng, những điểm cần ghi nhớ khi dùng, v.v…
Căn cứ vào những đặc điểm đó, nên đối với thuốc bảng A là thuốc độc hơn hết thì dùng nhãn trắng có khung màu đen và dấu hiệu “đầu lâu hai xương chéo”. Dấu hiệu này tượng trưng cho sự nguy hiểm chết người. Màu đen có tính chất đặc biệt nên làm cho người pha chế cũng như người dùng thuốc dễ chú ý hơn và hiện nay ta cũng bắt đầu quen dùng làm màu tang. Bảng B: thuốc nguy hiểm, nhãn trắng có khung màu đỏ máu, kèm theo chữ “nguy hiểm”, còn đối với thuốc thường thì dùng nhãn màu trắng.
Cách trình bày cũng có sự phân biệt để nhắc nhở thêm như đối với thuốc nguyên chất hoặc dung dịch đậm đặc, nhãn có khung đen hay đỏ; thuốc đã pha chế để dùng trực tiếp cho bệnh nhân, nhãn có thêm một gạch đen hoặc đỏ; thuốc dùng ngoài có thêm viền vàng (màu đen), thuốc nhỏ mắt có dấu hiệu “con mắt và ống nhỏ giọt”,v.v…
Do tính chất quan trọng nói trên nên trong bất cứ một trường hợp nào, thuốc Đông hay Tây, nhãn thuốc cần phải được trình bày thống nhất như quy chế để luôn luôn nhắc nhở cán bộ y, và dược phải lưu ý khi trực tiếp với thuốc men và cũng dần dần gây thành tập quán đối với bệnh nhân để khỏi dùng nhầm thuốc.
III. CHẾ ĐỘ BẢO QUẢN, CẤP PHÁT, SỔ SÁCH VÀ KÊ ĐƠN
Do tính chất độc nên việc bảo quản, cấp phát, pha chế các thuốc bảng A, B phải được đề cao hơn một mức, vì nếu không, chỉ một sự vô ý nhỏ trong khi cấp phát hoặc pha chế là có thể gây ra hàng loạt người bị ngộ độc. Do đó những đơn vị có dược sĩ thì dược sĩ phải trực tiếp phụ trách tủ thuốc độc về bảo quản, xuất nhập, pha chế, chỉ những khi vắng mặt mới được ủy nhiệm cho người khác tạm thay.
Những nơi không có dược sĩ thì phải chỉ định một dược tá khá để chuyên trách và chịu trách nhiệm xuất nhập tủ thuốc độc. Thủ trưởng chuyên môn của đơn vị là người hiểu biết nhiều chuyên môn hơn, nên phải chịu trách nhiệm trực tiếp với dược tá đó về việc quản lý thuốc độc, nhất là việc xét duyệt cấp phát.
Việc giữ sổ sách, chứng từ rõ ràng, chính xác, kịp thời và đầy đủ là đảm bảo cho việc quản lý thuốc độc được tốt, do đó cần phải chống lối làm việc đại khái, tùy tiện, linh động vô nguyên tắc.
Việc kê đơn thuốc thận trọng, rõ ràng là biểu hiện tinh thần trách nhiệm đối với bệnh nhân. Người kê đơn phải theo đúng thủ tục đã quy định, đơn kê phải rõ ràng để người pha chế và bệnh nhân dễ hiểu và không nhầm, vì chỉ ghi sai một nét bút, một dấu phẩy, là đã có thể nguy hại đến bệnh nhân tránh lối cẩu thả và một số người hiện nay còn mắc phải như viết tắt, viết khó đọc, viết công thức hóa học, những danh từ bằng chữ nước ngoài.
Trong những trường hợp danh từ tiếng Việt đã dùng một cách phổ thông, v.v…
0 nhận xét